Đề cương tuyên truyền nghị định số 110/2013/NĐ-CP
Đề cương tuyên truyền nghị định số 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ:
ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
Nghị định số 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ:
Nhiều điểm mới về xử phạt vi phạm hành chính góp phần tăng cường trật tự, kỷ cương quản lý nhà nước trong các hoạt động tư pháp.
Biên soạn: Phòng Tư pháp Lộc Ninh
Ngày 24 tháng 9 năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (sau đây gọi tắt là Nghị định số 110/2013/NĐ-CP).
Nghị định số 110/2013/NĐ-CP là một trong số những Nghị định có phạm vi điều chỉnh tương đối rộng, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong 05 lĩnh vực, gồm: bổ trợ tư, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Nghị định gồm 08 chương, 75 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 11 tháng 11 năm 2013 và thay thế Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp; Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2001 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình; Nghị định số 10/2009/NĐ-CP ngày 06 tháng 02 năm 2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản (sau đây gọi tắt là các Nghị định số 60/2009/NĐ-CP, Nghị định số 87/2001/NĐ-CP, Nghị định số 10/2009/NĐ-CP).
1. Xác định rõ các tổ chức, cá nhân là đối tượng bị xử phạt của Nghị định
Mặc dù Pháp lệnh xử lý vi hành chính và các Nghị định số 60/2009/NĐ-CP, Nghị định số 87/2001/NĐ-CP, Nghị định số 10/2009/NĐ-CP đều quy định đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính bao gồm cả cá nhân và tổ chức nhưng trong đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính, việc xác định tổ chức nào là đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính còn gây nhiều tranh cãi.
Đối với các tổ chức, thực tế xử phạt vi phạm hành chính thời gian vừa qua, còn có sự phân biệt giữa cơ quan nhà nước, tổ chức sự nghiệp công lập với tổ chức sự nghiệp ngoài công lập, nhiều hành vi vi phạm hành chính của tổ chức sự nghiệp công đã không bị xử phạt, trong khi đó, cũng hành vi vi phạm hành chính như vậy nhưng nếu do tổ chức sự nghiệp ngoài công lập thực hiện thì lại bị xử phạt. Tình trạng trên dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các tổ chức hoạt động trong cùng một lĩnh vực và không bảo đảm tính răn đe, ngăn ngừa vi phạm, tính công minh của pháp luật. Khắc phục bất hợp lý này, trên cơ sở quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính và xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP xác định rõ những tổ chức thuộc đối tượng bị xử phạt của Nghị định quy định trong từng lĩnh vực, cụ thể: Một là, trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, các tổ chức là đối tượng bị xử phạt bao gồm: các tổ chức hành nghề công chứng; tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư; tổ chức hành nghề luật sư; tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam; trung tâm tư vấn pháp luật; văn phòng giám định tư pháp; tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp; trung tâm trọng tài, tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam; Hai là, trong lĩnh vực hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, các tổ chức là đối tượng bị xử phạt bao gồm: trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; văn phòng con nuôi nước ngoài; tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; cơ quan Trung ương của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và đơn vị trực thuộc của các tổ chức này thực hiện hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật với cơ quan chính phủ, tổ chức quốc tế liên chính phủ và tổ chức phi chính phủ nước ngoài; Ba là, trong lĩnh vực phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, các tổ chức là đối tượng bị xử phạt chính là các doanh nghiệp, hợp tác xã tiến hành thủ tục phá sản. Đồng thời, Nghị định cũng quy định: cơ quan nhà nước có hành vi vi phạm mà hành vi đó không thuộc nhiệm vụ quản lý nhà nước được giao và các tổ chức khác không phải là cơ quan nhà nước vi phạm hành chính cũng là đối tượng bị xử phạt của Nghị định.
Đối với các cá nhân, Nghị định quy định theo hướng về nguyên tắc cá nhân vi phạm hành chính sẽ bị xử phạt nhưng nếu cá nhân là công chức, viên chức thực hiện hành vi vi phạm khi đang thi hành công vụ, nhiệm vụ và hành vi đó thuộc công vụ, nhiệm vụ được giao thì không bị xử phạt, mà bị xử lý theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức.
Có thể thấy rằng, việc liệt kê và chỉ rõ các tổ chức, cá nhân là đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP chính là một trong những điểm mới, điểm khác biệt giữa Nghị định số 110/2013/NĐ-CP với Nghị định số 60/2009/NĐ-CP, Nghị định số 87/2001/NĐ-CP, Nghị định số 10/2009/NĐ-CP và với một số Nghị định của Chính phủ vừa được ban hành để triển khai thực hiện Luật xử lý vi phạm hành chính. Với những quy định như vậy sẽ không những bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng trên thực tế mà còn bảo đảm sự bình đẳng trong hoạt động giữa các tổ chức hành nghề trong cùng một lĩnh vực và qua đó tăng cường tính răn đe, phòng ngừa đối với tất cả các đối tượng, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định.
2. Sửa đổi, bổ sung, mô tả cụ thể hành vi vi phạm hành chính và không quy định lại những hành vi không còn phù hợp, khó khả thi
Một là, sửa đổi, bổ sung để không bỏ lọt hành vi vi phạm và mô tả cụ thể, mô tả rõ hành vi vi phạm hành chính để có thể xác định được và xử phạt được trong thực tiễn:
Trên cơ sở các quy định của pháp luật về nội dung và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, các hành vi vi phạm hành chính được xác định trong Nghị định trước hết là những hành vi vi phạm quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm, điều cấm của pháp luật về trật tự quản lý hành chính trong các lĩnh vực chuyên ngành thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định. Đặc biệt, quá trình xây dựng Nghị định đã quán triệt sâu sắc nguyên tắc hành vi vi phạm hành chính không được mô tả chung chung, trìu tượng, hạn chế tối đa việc một hành vi được quy định nhưng có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, tức là hành vi vi phạm hành chính phải được mô tả rõ ràng, cụ thể để có thể xác định được và xử phạt được trong thực tiễn. Với những yêu cầu đặt ra cụ thể như trên, bên cạnh việc kế thừa các quy định của Nghị định số 60/2009/NĐ-CP, Nghị định số 10/2009/NĐ-CP, Nghị định số 87/2001/NĐ-CP còn phù hợp với Luật Xử lý vi phạm hành chính mới ban hành và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP cũng sửa đổi, bổ sung nhiều hành vi mới cho phù hợp với một số luật mới ban hành và đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính. Đây chính là một trong những điểm mới cơ bản nhất của Nghị định. Những hành vi vi phạm hành chính mới được sửa đổi, bổ sung chủ yếu phát sinh trong các lĩnh vực hiện nay đang được dư luận xã hội quan tâm và đã có thay đổi về pháp luật nội dung như lĩnh vực bổ trợ tư pháp và hành chính tư pháp. Trong đó, điểm nổi bật về các hành vi vi phạm hành chính mới được quy định tại Nghị định số 110/2013/NĐ-CP, trước hết phải kể đến trong hoạt động công chứng, so với quy định tại Nghị định số 60/2009/NĐ-CP, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP đã bổ sung thêm 14 loại hành vi vi phạm hành chính mới chẳng hạn như hành vi: xác nhận không đúng thời gian công tác pháp luật, thời gian và kết quả tập sự hành nghề công chứng để đề nghị bổ nhiệm công chứng viên (Điểm c Khoản 2 Điều 11); lời chứng của công chứng viên trong văn bản công chứng không đầy đủ nội dung theo quy định của Luật Công chứng (Điểm đ Khoản 2 Điều 14)… Đặc biệt, trước dư luận thời gian vừa qua phản ánh có hiện tượng “công chứng khống” các hợp đồng, giao dịch, mặc dù chưa có quy định của pháp luật chuyên ngành giải thích về thuật ngữ “công chứng khống” nhưng căn cứ vào quy định của Luật công chứng và pháp luật có liên quan, Nghị định đã cụ thể hóa và quy định xử phạt đối với hành vi công chứng trước vào hợp đồng, giao dịch khi chưa xác định đầy đủ các bên chủ thể của hợp đồng giao dịch đó (Khoản 6 Điều 14).
Đối với hoạt động bán đấu giá tài sản, khắc phục kẽ hở trong xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định số 60/2009/NĐ-CP là còn bỏ lọt một số hành vi vi phạm pháp luật về bán đấu giá tài sản và đã xảy ra trên thực tế ở nhiều địa phương nhưng chưa được điều chỉnh, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP đã bổ sung thêm 13 nhóm hành vi vi phạm mới, trong đó có những hành vi qua tổng kết cho thấy khá bức xúc trong thực tế nhưng không có chế tài xử phạt như hành vi: không lập biên bản hoặc ghi biên bản không đầy đủ chi tiết diễn biến của phiên đấu giá; không ghi kết quả cuộc bán đấu giá vào sổ đăng ký bán đấu giá tài sản (Điểm b Khoản 2 Điều 19); lập danh sách khống về người đăng ký mua tài sản bán đấu giá, lập hồ sơ khống, lập hồ sơ sai sự thật; thông đồng, dìm giá trong hoạt động bán đấu giá tài sản (Điểm a và Điểm b Khoản 7 Điều 19);...
Một hoạt động đang được xã hội rất quan tâm cũng có nhiều hành vi mới được bổ sung trong Nghị định số 110/2013/NĐ-CP, đó là hoạt động luật sư. Trong hoạt động này, Nghị định đã bổ sung thêm 12 loại hành vi như hành vi: làm giả chứng chỉ hành nghề luật sư, giấy đăng ký hành nghề luật sư, giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam, giấy chứng nhận về việc tham gia tố tụng, giấy chứng nhận người bào chữa; mạo danh luật sư để hành nghề luật sư dưới bất kỳ hình thức nào (Điểm a và Điểm bKhoản 5 Điều 6); hay hành vi vi phạm quy định về tổ chức hành nghề luật sư như: phân công luật sư hướng dẫn tập sự hành nghề luật sư quá số người theo quy định của pháp luật; (Điểm b Khoản 2 Điều 7)...
Bên cạnh việc bổ sung khá nhiều các hành vi vi phạm hành chính mới trong 03 hoạt động điển hình như trên, trong tất cả các hoạt động thuộc các lĩnh vực trong phạm vi điều chỉnh của Nghị định đều được bổ sung những hành vi vi phạm hành chính mới để phù hợp với nội dung của pháp luật chuyên ngành và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống vi phạm hành chính đã phát sinh và đang diễn ra trong thực tiễn.
Hai là, không quy định lại những hành vi vi phạm hành chính đã được quy định tại các Nghị định số 60/2009/NĐ-CP, Nghị định số 10/2009/NĐ-CP, Nghị định số 87/2001/NĐ-CP nhưng không còn phù hợp và khó khả thi trên thực tế:
Đồng thời với việc bổ sung nhiều nhóm hành vi vi phạm hành chính mới, thì nhiều nội dung của các Nghị định số 60/2009/NĐ-CP, Nghị định số 10/2009/NĐ-CP; Nghị định số 87/2001/NĐ-CP cũng đã được bãi bỏ, không tiếp tục quy định lại do không còn phù hợp với tinh thần Luật Xử lý vi phạm hành chính hoặc trong thực tiễn thi hành đã phát sinh những khó khăn, bất cập, không có tính khả thi. Đặc biệt trong nhóm này phải kể đến lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình được quy định tại Chương IV của Nghị định trên cơ sở kế thừa các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình của Nghị định 87/2001/NĐ-CP và hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động nuôi con nuôi được quy định tại Nghị định số 60/2009/NĐ-CP. Nghị định số 87/2001/NĐ-CP có 10 điều (từ Điều 6 đến Điều 15) quy định về hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, trong đó có 05 điều đã bị bãi bỏ tại Nghị định số 10/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 12 năm 2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình, gồm: Hành vi cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ; Hành vi vi phạm quy định về quan hệ giữa cha mẹ và con; Hành vi ngược đãi, hành hạ thành viên trong gia đình hoặc người có công nuôi dưỡng mình; Hành vi vi phạm quy định về cấp dưỡng và Hành vi vi phạm quy định về quyền thăm nom con sau ly hôn. Do đó, các hành vi vi phạm hành chính trên đã không được quy định lại tại Nghị định số 110/2013/NĐ-CP.
Ngoài ra, trong hầu hết các hoạt động của các lĩnh vực đều có những hành vi trước đây đã được quy định nhưng Nghị định số 110/2013/NĐ-CP không quy định lại, chẳng hạn trong hoạt động trợ giúp pháp lý so với Nghị định 60/2009/NĐ-CP, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP đã không quy định lại 05 hành vi không còn phù hợp như hành vi: thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý cho hai người được trợ giúp pháp lý trở lên có quyền lợi đối lập nhau trong cùng vụ việc trừ trường hợp hòa giải, giải đáp pháp luật; sách nhiễu, chậm trễ, gây khó khăn cho người được trợ giúp pháp lý hoặc kéo dài thời gian thực hiện trợ giúp pháp lý; hứa hẹn trước về kết quả giải quyết vụ việc hoặc có hành vi làm ảnh hưởng đến yêu cầu và chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý;... Riêng trong lĩnh vực phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã, hành vi vi phạm hành chính được kế thừa toàn bộ các quy định tại Nghị định số 10/2009/NĐ-CP và quy định tại Chương VI của Nghị định.
3. Sửa đổi, bổ sung về hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả trên cơ sở qui định của Luật xử lý vi phạm hành chính và tính chất của các hành vi vi phạm
- Về hình thức xử phạt: Theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính, các hình thức xử phạt của Nghị định đã được quy định và phát triển dựa trên kết cấu các hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung, cụ thể:
Đối với hình phạt chính: do nhiều hành vi vi phạm hành chính quy định trong Nghị định số 60/2009/NĐ-CP; Nghị định số 87/2001/NĐ-CP; Nghị định số 10/2009/NĐ-CP còn chung chung, chưa làm rõ được mức độ của hành vi vi phạm từ ít nghiêm trọng, nghiêm trọng đến rất nghiêm trọng do đó có những tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính ở nhiều mức độ nguy hại cho xã hội khác nhau nhưng đều cùng chịu một mức phạt tiền giống nhau. Do đó, mức phạt tiền đối với một số hành vi vi phạm có tính chất nghiêm trọng trong các Nghị định trên còn thấp, chưa đủ sức răn đe nhằm nâng cao tính tuân thủ pháp luật của các tổ chức, cá nhân. Trong khi đó, Luật xử lý vi phạm hành chính ra đời thay thế Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính đã nâng mức phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính lên khá nhiều. Khắc phục tình trạng trên, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP đã tăng mức phạt đối với các hành vi vi phạm cho phù hợp với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và tình hình kinh tế xã hội của đất nước, tránh tình trạng mức phạt không tương xứng với các khoản thu từ các hợp đồng dịch vụ của các tổ chức công chứng, luật sư, tư vấn pháp luật, bán đấu giá… Nghị định số 110/2013/NĐ-CP cũng quy định phân biệt rõ mức phạt tiền đối với cá nhân, tổ chức (Điều 4), trong đó: mức phạt tiền quy định tại các chương II, III, IV, V và VI của Nghị định này được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính của cá nhân (trừ các điều 7, 8, 9, 15, 18, 21, 22, 29, 44, 51, 58, 59, 60, 62 và 63 được áp dụng đối với tổ chức) và trường hợp tổ chức có hành vi vi phạm hành chính như của cá nhân thì mức phạt tiền bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Đồng thời, đề cao tính nghiêm khắc và răn đe của pháp luật, Nghị định cũng quy định trong một số trường hợp sẽ bị áp dụng hình thức xử phạt chính là tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ, thẻ có thời hạn từ 06 tháng đến 24 tháng.
Việc quy định các hình thức xử phạt chính như trên cũng là một trong những điểm mới cơ bản của Nghị định, có ý nghĩa quan trọng, vừa bảo đảm tính bình đẵng giữa các tổ chức với tổ chức, cá nhân với cá nhân hoạt động trong cùng một lĩnh vực đồng thời bảo đảm tính răn đe đối với các tổ chức, cá nhân là đối tượng bị xử phạt. Qua đó tác động tích cực đối với việc bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của những công dân tham gia vào hoạt động tư pháp, góp phần mang lại hiệu quả ngày càng cao đối với lĩnh vực tư pháp, là hành lang pháp lý để các tổ chức, cá nhân tuân thủ pháp luật nghiêm minh.
Đối với hình phạt bổ sung: Hình thức xử phạt bổ sung được quy định trong dự thảo Nghị định là tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ, thẻ có thời hạn từ 01 tháng đến 03 tháng. Hình thức tước giấy phép, chứng chỉ không thời hạn trong các Nghị định hiện hành đã không được quy định để phù hợp với Luật Xử lý vi phạm hành chính. Một số hình thức xử phạt bổ sung được quy định tại Nghị định 60/2009/NĐ-CP về bản chất không phải là hình thức xử phạt bổ sung như: hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã thực hiện; tịch thu giấy tờ, tài liệu v.v.. cũng đã được loại bỏ và điều chỉnh thành các biện pháp khắc phục hậu quả phù hợp với Luật Xử lý vi phạm hành chính.
- Về biện pháp khắc phục hậu quả: về cơ bản Nghị định vẫn giữ nguyên những quy định tại các Nghị định trước, nhưng có loại bỏ một số biện pháp khắc phục hậu quả về bản chất không phải là biện pháp khắc phục hậu quả hoặc chỉ mang tính chất yêu cầu người vi phạm phải thực hiện đúng quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, Nghị định đã bổ sung một số biện pháp khắc phục hậu quả cho phù hợp với Luật xử lý vi phạm hành chính như: hủy bỏ kết quả bán đấu giá tài sản, hủy bỏ giấy tờ giả... Đồng thời, để bảo đảm tính pháp chế, phù hợp với các quy định của pháp luật có liên quan, Nghị định cũng quy định đối với một số biện pháp khắc phục hậu quả mà người có thẩm quyền xử phạt không có thẩm quyền thực hiện thì kiến nghị người có thẩm quyền hoặc cơ quan có thẩm quyền thực hiện.
4. Quy định cụ thể về những người có thẩm quyền và trách nhiệm lập biên bản vi phạm hành chính
Một trong những hạn chế của các Nghị định số 60/2009/NĐ-CP; Nghị định số 87/2001/NĐ-CP; Nghị định số 10/2009/NĐ-CP đều không có quy định về thẩm quyền lập biên bản vi phạm dẫn đến việc lúng túng trong thực hiện trên thực tế. Khắc phục tình trạng trên, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP đã quy định cụ thể về những người có thẩm quyền và trách nhiệm lập biên bản vi phạm hành chính, gồm 02 nhóm: người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Nghị định mà đang thi hành công vụ, nhiệm vụ và công chức, viên chức đang thi hành công vụ, nhiệm vụ cũng có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính. Nghị định cũng quy định cụ thể từng lĩnh vực mà người có thẩm quyền lập biên bản vừa theo cấp hành chính từ cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh và tới cấp trung ương lại vừa theo lĩnh vực quản lý ngành (Điều 65).
Rõ ràng, điểm mới cơ bản này của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP đã khắc phục được bất cập của những nghị định trước, bảo đảm nguyên tắc mọi vi phạm hành chính được phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời qua đó bảo đảm tính khả thi của Nghị định. Đồng thời, việc giới hạn người có thẩm quyền lập biên bản là công chức, viên chức đang thi hành công vụ, nhiệm vụ còn có ưu điểm là tránh được khả năng lập biên bản vi phạm hành chính tràn lan, thuận tiện cho công tác quản lý nhà nước về xử phạt vi phạm hành chính.
5. Phân định rõ thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các chức danh theo từng hoạt động, từng lĩnh vực và theo mức tiền phạt
Một điểm mới cơ bản quan trọng nữa của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP so với các Nghị định số 60/2009/NĐ-CP; Nghị định số 87/2001/NĐ-CP; Nghị định số 10/2009/NĐ-CP đó là Nghị định số 110/2013/NĐ-CP đã phân định rõ thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các chức danh theo từng hoạt động, từng lĩnh vực và theo mức tiền phạt. Theo đó, Nghị định quy định thẩm quyền xử phạt cho từng chức danh cụ thể từ Điều 66 đến Điều 70, đó là Chủ tịch Ủy ban nhân các cấp, thanh tra Bộ Tư pháp; thanh tra sở Tư pháp; Tổng cục trưởng, Cục trưởng, Chi cục trưởng cơ quan thi hành án dân sự các cấp; Trưởng phòng Thi hành án dân sự cấp quân khu; chấp hành viên thi hành án dân sự; người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan khác được uỷ quyền thực hiện chức năng lãnh sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc phá sản; Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện; Chánh toà chuyên trách Toà án nhân dân cấp tỉnh; Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh; Chánh toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; Chánh toà chuyên trách Toà án nhân dân tối cao. Nghị định cũng quy định chi tiết về thẩm quyền xử phạt của Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp để bảo đảm phù hợp với tinh thần Luật Xử lý vi phạm hành chính. Về mức phạt tiền của từng chức danh có thẩm quyền xử phạt, căn cứ thẩm quyền được quy định tại các Điều 38, 46, 48, 49, 51 Luật Xử lý vi phạm hành chính và mức phạt tiền tối đa đối với từng lĩnh vực được quy định tại Điều 24 Luật Xử lý vi phạm hành chính, Nghị định đã cụ thể hóa mức phạt tiền của từng chức danh trong từng lĩnh vực có thẩm quyền xử phạt. Nghị định cũng quy định rõ thẩm quyền về mức phạt này là thẩm quyền áp dụng đối với một hành vi vi phạm hành chính của cá nhân. Trong trường hợp phạt tiền đối với tổ chức thì thẩm quyền xử phạt gấp 02 lần thẩm quyền xử phạt đối với cá nhân (Điều 71). Đồng thời, căn cứ Luật Xử lý vi phạm hành chính và quy định về quản lý nhà nước tại các văn bản pháp luật có liên quan, Điều 72 của Nghị định đã phân định rõ ràng thẩm quyền xử phạt của từng chức danh để đảm bảo phù hợp với lĩnh vực được quy định tại các Chương của Nghị định.
Tóm lại, việc ban hành Nghị định số 110/2013/NĐ-CP có ý nghĩa quan trọng, có thể coi đó là một bước phát triển, một bước hoàn thiện mới của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong các hoạt động tư pháp. Nghị định này chính là một trong những công cụ không thể thiếu của hoạt động quản lý nhà nước nói chung, trong các lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã nói riêng. Hy vọng rằng, khi Nghị định có hiệu lực thi hành và được triển khai thực hiện trên thực tế sẽ góp phần bảo đảm trật tự, kỷ cương hành chính, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính cũng như đấu tranh phòng, chống có hiệu quả đối với vi phạm hành chính trong các lĩnh vực có liên quan.
Tải file tại đây.
file 1
file 2